NDĐT - Năm qua, lại thêm một bộ môn nghệ thuật truyền thống nữa của Việt Nam được ghi danh vào danh sách di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Đó là thực hành Then, một nghi thức trình diễn vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính tâm linh của cộng đồng người Tày, Nùng ở một số tỉnh miền núi phía bắc.
Theo tư liệu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh Hà Giang, Thái Nguyên, Then nghĩa là Thiên hoặc Sliên – Trời, hát Then là khúc hát của trời xua tà quỷ cứu dân. Người Tày, Nùng quan niệm khi đau ốm thì kết hợp cả cúng bái và chữa thuốc, mời các thầy Then, Phửi đến để chữa bệnh bằng liệu pháp tinh thần cho người bệnh. Then là những khúc hát, điệu múa được dùng trong các lễ cúng chữa bệnh, giải hạn, cầu mùa, lễ cốm, lễ cấp sắc, mừng năm mới… của người dân tộc Tày, Nùng, Thái, do những người làm nghề Then thực hiện.
Nghi lễ Then đối với người Tày, Nùng, Thái xưa nay giống như một nghi thức tâm linh nối con người với đấng tối cao của mình. Nghi lễ Then phản ánh các quan niệm của người Tày, Nùng, Thái về con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ. Các lễ Then diễn tả hành trình Thầy Then (Ông Then, Bà Then) điều khiển đoàn âm binh đi từ Mường Đất lên Mường Trời để dâng lễ vật và thỉnh cầu trong các lễ cầu an, chữa bệnh, cầu mùa, chúc mừng năm mới… Khi các Thầy Then cất tiếng hát, gảy tính tẩu là khởi đầu cuộc hành trình. Tùy theo mục đích của việc cầu cúng mà Thầy Then sẽ bày mâm cúng và cầu khấn trước bàn thờ Then những vị thần bản địa khác nhau. Thầy Then thường sử dụng các đồ vật như: kiếm trừ tà, thanh âm dương, chuông... để thực hiện lễ Then tại nhà tín chủ, ở ngoài trời hoặc tại bàn thờ Then ở nhà của Thầy Then. Thầy Then mặc lễ phục và vừa hát tiếng dân tộc mình vừa gảy tính tẩu, xóc chùm xóc nhạc, phất quạt; có buổi lễ còn có tốp nữ múa phụ họa.
Then luôn luôn được trao truyền qua các thế hệ bằng hình thức truyền khẩu khi thực hành nghi lễ Then, và các thầy Then đóng vai trò chính yếu trong việc chuyển giao các kỹ năng và bí quyết liên quan. Theo tài liệu của Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), một số thầy Then thực hiện khoảng 200 nghi lễ Then một năm.
Đặc điểm của Then là tính nghệ thuật gắn liền với yếu tố tâm linh. Thầy Then là người sáng tạo cả về lời ca và giai điệu. Cây đàn tính không có phím cho nên thầy Then hoàn toàn có thể ngẫu hứng tạo âm trên cây đàn. Mang yếu tố tâm linh khi gắn liền với nhiều nghi lễ cúng cầu, nhưng Then cũng hoàn toàn mang tính lễ hội khi gắn với những sự kiện trong cuộc đời con người, hoặc vào những dịp mừng năm mới….
Gắn liền với nghi lễ Then là cây đàn tính. Tính tẩu giữ một vai trò quan trọng đối với thực hành nghi lễ Then, vừa dẫn dắt, vừa là đệm, nhưng cũng đóng vai trò như một giọng hát thứ hai cùng với giọng của nghệ sĩ diễn xướng. Đàn tính là một loại nhạc cụ rất đặc biệt, được làm từ nửa quả bầu khô. Quả bầu không được quá to, cũng không quá nhỏ, chu vi khoảng 60-70cm, hình tròn đẹp cân đối, vỏ dày, gõ vào phải kêu đanh mới cho ra được âm thanh chuẩn. Quả bầu già cắt xuống moi hết ruột, rửa sạch, phơi thật khô rồi ngâm vôi khoảng 2-3 ngày để chống mối mọt và giữ cho âm thanh được ổn định.
Nắp đàn làm từ gỗ cây hoa sữa hoặc cây vông, trước kia dùng nhựa cây hồng để dính vì chưa có keo. Cần đàn được làm từ những loại gỗ dẻo như cây thông đất, cây dẻ, cây mỡ hoặc xoan có tuổi đời từ 15 năm trở lên, chọn mặt gỗ mịn, ít vân. Dây đàn được làm bằng tơ, sau này thay bằng dây cước. Đàn có hai hoặc ba dây, ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn phổ biến đàn hai dây, ở Hà Giang, Tuyên Quang phổ biến cả hai loại. Theo tạp chí Văn Hiến, người Tày có câu ca “Đàn tính của bụt là ba dây - đàn tính hai dây là đàn của Giàng”.
Có nhiều câu chuyện về dây của đàn tính. Nội dung nói chung xoay quanh một chàng trai hoặc một nàng tiên tự làm cây đàn tính từ hạt bầu trời ban hoặc được trời ban cho cây đàn, gẩy lên làm say đắm muôn loài, khi gẩy những khúc nhạc buồn thì cả người, vật và cây cỏ đều buồn tái tê, không thiết ăn uống mà chết. Trời bèn bắt bỏ bớt đi chỉ còn để lại hai hoặc ba dây như hiện nay.
Trong số những di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO ghi danh, Thực hành Then là di sản có sức sống tương đối mạnh mẽ trong đời sống cộng đồng người Tày, Nùng… Theo tư liệu của Phòng Di sản phi vật thể (Cục Di sản văn hóa), sức sống của Then được bảo đảm và lưu truyền do các cá nhân, gia đình hoặc cộng đồng, những người mời thầy Then đến làm lễ cầu sức khỏe, cầu an và cầu mùa. Then đi vào đời sống người Tày, Nùng bằng cả âm nhạc và tín ngưỡng, gắn liền với những dấu mốc trong cuộc sống của mỗi người cũng như gắn kết với cả cộng đồng.
Hiện nay, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái tập trung chủ yếu ở 11 tỉnh vùng Đông Bắc (Bắc Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang), vùng Tây Bắc (Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai) và một số địa phương khác.
Cục Di sản văn hóa cũng cho biết, từ năm 2001, Chính phủ đã đầu tư kinh phí từ các Chương trình quốc gia về văn hóa để bảo vệ di sản văn hóa của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong đó có nghi lễ Then. Các biện pháp bảo vệ được đề xuất theo định hướng của các chương trình này, bao gồm việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn để bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa phi vật thể; khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và tạo điều kiện phù hợp phục vụ nghiên cứu; triển khai các hoạt động nhận diện, kiểm kê và tư liệu hóa; nghệ nhân dân gian truyền dạy kiến thức bằng cách kết hợp đưa hát Then và tính tẩu vào chương trình giảng dạy ở trường và xuất bản các ấn phẩm để nghiên cứu, giảng dạy di sản Then bằng cách thúc đẩy, khuyến khích những người trẻ quan tâm đến việc thực hành. Các cộng đồng và nghệ nhân đã tích cực tham gia vào việc lập kế hoạch, đề xuất các biện pháp bảo vệ di sản. Di sản Then của 11 tỉnh cũng đã lần lượt được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia kể từ năm 2012.
Ở các tỉnh có di sản Then, hầu hết đều có những nghệ nhân giữ lửa cho nghề. Không chỉ là những nghệ nhân tuổi cao, nhiệt tình sưu tầm và sáng tác lời Then, như nghệ nhân Hà Thuấn (Chiêm Hóa, Tuyên Quang), nghệ nhân Mông Thị Sâm (thành phố Lạng Sơn), những người mà tuổi đời và tuổi nghề đã suýt soát ngang nhau, mà còn có cả những nghệ nhân trẻ, những người yêu mến nghệ thuật Then, mong muốn sưu tầm, học hỏi, truyền dạy những vốn văn hóa cổ quý giá của cha ông, như nghệ nhân Nguyễn Xuân Bách (giảng viên Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc), nghệ nhân Phạm Văn Quang (Ngân Sơn, Bắc Kạn)… và rất nhiều nghệ nhân ở các thế hệ, các lứa tuổi khác đang ngày đêm âm thầm giữ lửa, khơi thông cho dòng chảy của Then chảy mãi…
Như vậy, cùng với Then, Việt Nam đã có 13 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh vào danh sách 508 di sản của 122 quốc gia. Đây là niềm tự hào nhưng cũng là thách thức không nhỏ khi phải luôn phải bảo đảm những yêu cầu về tiêu chuẩn của UNESCO, đặc biệt là những yêu cầu về việc bảo vệ, giữ gìn, trao truyền di sản văn hóa phi vật thể này.